Đá Mã Não (Agate) và tác dụng chữa bệnh (theo dân gian)
October 20th, 2011 DaQuy.com
Ở Ấn Độ, Nepal và Tibet, nơi các bùa hộ mạng bằng mã não rất được ưa chuộng, người ta tin rằng nó đem lại sự che chở và may mắn. Mã não được cho là từng được dùng trong các bản khắc quan tài của các thầy tế Do thái trong kinh Cựu ước. Theo truyền thống, mã não được để trong nước dùng và nước uống để chữa bệnh
Một tinh thể mã não thường dẹt và mỏng bởi những chất lắng đọng trong các lớp của nó. Tinh thể mã não có nhiều màu, xanh lam, xám, trắng, nâu, đó, xanh lục, vàng, đen và hồng.
Đặc tính chữa bệnh
Tinh thể mã não là một tinh thể tuyệt vời để làm cân bằng và hài hòa cơ thể, tinh thần và cả tâm linh. Nó cũng làm sạch và ổn định tâm trí, loại bỏ sự tiêu cực.
Mã não kích thích và củng cố khả năng phân tích, giúp suy nghĩ rõ ràng và lý trí hơn cũng như làm ta tập trung hơn vào một nhiệm vụ hiện thời. Hơn nữa, nó cũng cho ta quyền đến gần và lấy cảm hứng từ vùng đất tâm linh.
Tinh thể mã não rất tinh thểng thán phục khi được dùng với người đang mang thai vì nó làm dịu những cơn đau, giúp cả người mẹ và đứa bé bình tâm cũng như cân bằng lại trong suốt thời gian có thai. Sau khi sinh, tinh thể mã não ngăn tình trạng lệch dạ con.
* · Mã não xanh (Blue lace agate)
Loại tinh thể này đặc biệt hiệu quả với cổ họng, nhưng nó cũng có khả năng cân bằng chakra tim, trán và đỉnh đầu.
Đây là loại tinh thể giúp bình tâm, cho ta sự yên lặng và thanh bình cần thiết để đạt đến một khả năng nhận biết tâm linh cao hơn.
Mã não xanh còn giúp củng cố và tăng nhanh quá trình lành các khớp xương cũng như giảm viêm khớp. Nó làm dịu mắt cũng như giúp cho các bệnh về da có liên quan đến rát đỏ.
* · Mã não đỏ
Có sự tương thích với chakra gốc cột sống nên loại tinh thể này rất tiện lợi để giữ tỉnh táo và thiết lập kết nối mạnh mẽ với mặt đất. Nó rất tốt để xua tan những nỗi sợ hãi và có thể được đeo trên người nhằm tạo ra một vòng bảo vệ chắc chắn.
Mã não đỏ còn được dùng để “đốt”, hủy hoặc chuyển hóa cái cũ, mở đường cho cái mới. Nếu bạn muốn thay đổi triệt để một điều gì đó trong cuộc sống, đây là tinh thể bạn sẽ cần để “đốt” những chướng ngại vật đang chắn đường. Tinh thể này cũng rất tốt khi bạn muốn nạp năng lượng và cảm thấy mệt mỏi.
Nguồn: Da Quy – Da Phong Thuy
Topaz – Đá Topaz
October 15th, 2011 DaQuy.com
Topaz là loại đá của tình yêu đích thực và thành công. Nó thúc đẩy sự thấu hiểu, lòng từ bi, tốt bụng và sự cảm thông. Nó làm rung động và xoa dịu nỗi đau trong tim những người bị tổn thương. Topaz cũng được dùng trong thiền định và chữa bệnh.
Topaz màu vàng là phổ biến nhất, ngoài ra người ta cũng tìm thấy topaz xanh dương, trắng và nâu. Topaz được khai thác từ Mỹ, Canada. Brazil và Sri Lanca. Topaz truyền năng lượng tới cho những ai cần nó, nhất là đối với những người đang bị khủng hoảng hay cần động lực.
Topaz xanh Thụy Điển
Ở Việt Nam, topaz được tìm thấy ở Khánh Hòa, dạng không màu. Topaz được ưa chuộng nhất là topaz xanh dương. Nếu emerald là vua của các loại đá màu xanh lục, thì topaz là chúa của đá màu xanh dương.
Đây là loại đá sinh nhật tháng 12. Tuy nhiên, Topaz xanh dương trên thị trường rất dễ bị làm giả. Vì topaz thiên nhiên rất ít tạp, khó có thể phân biệt được thiên nhiên và nhân tạo bằng mắt thường. Ngoài ra topaz xanh dương hiếm được tìm thấy ở Việt Nam, nên giá thành khá cao, khiến động cơ sản xuất đá giả là rất lớn
Hiện nay trên thị trường còn xuất hiện Mytic topaz, đây là loại topaz đã được xử lý. Nó tỏa ánh sáng 7 sắc cầu vồng rất đẹp.
Nguồn: Da Quy – Da Phong Thuy
Beryls – Đá Beryls
October 15th, 2011 DaQuy.com
Màu sắc thường tác động lên cảm xúc chúng ta một cách trực tiếp. Nó có thể làm cho chúng ta đang chán nản trở nên yêu đời và hạnh phúc, nhưng cũng có thể khiến chúng ta phân tán hay chán nản hơn. Phải chăng màu sắc có một năng lượng kỳ diệu. Chúng ta đã được thiên nhiên ban tặng những viên đá quý, là nơi mà màu sắc vừa vĩnh hằng vừa hết sức kỳ diệu. Trong thế giới đá quý, ngọc lục bảo có một màu xanh hoàn hảo mà các loài thực vật phải ngưỡng mộ. Màu của Aquamerin lại rất đa dạng từ màu xanh của trời đến màu xanh đậm của biển cả. Màu hồng quyến rũ của morganite tượng trưng cho vẻ đẹp của giới đẹp trên toàn thế giới. Và, có ai biết rằng, những loại đá mà tôi vừa kể lại có chung một nguồn gốc? Vâng, Ngọc lục bảo, Aquamerin và Moganit đều chính là Beryl. Những anh chị em của chúng còn có Beryl vàng, beryl vàng xanh, goshenite không mày và beryl đỏ rất hiếm.
Vậy sự thực của câu chuyện này là gì? Đó là một lịch sử thú vị về sự hình thành beryl. Beryl, còn được gọi là Beryl Nhôm Silicat, bản thân vốn không có màu sắc. Hàng triệu năm trước, dưới tác dụng của áp lực và nhiệt độ cao đã tạo ra những chất đặc biệt trong lòng trái đất. Những chất này trộn lẫn, xâm nhập vào phân tử beryl, biến một loại đá không màu thành đá màu xanh, màu hồng, đỏ, vàng
Sắc màu của beryl đẹp nhất có lẽ là màu xanh biển từ Aquamerin, một trong những loại đá quýphổ biến và giá trị nhất. Đây là loại đá được các nhà thiết kế rất ưa chuộng. Nó dường như không bao giờ bị phá hủy, rất cứng và tỏa anh sáng tuyệt vời, nhất là khi đặt dưới nước
Ngọc lục bảo là một dạng khác của beryl, có màu xanh lá cây rất đặc trưng. Những vết nứt và tạp chất trong lòng của ngọc lục bảo thường không làm giảm đi giá trị tuyệt vời của nó.
Beryl có sự thay đổi màu sắc đặc biệt khi có mangan bên trong. Nó làm viên đá có màu hồng đầy nữ tính – đá morganite. Ngày xưa morganite có tên phổ biến là Beryl hồng. Nó được đặt là morganite từ năm 1911 để vinh danh chuyên gia tài chính và nhà sưa tầm đá quý John Pierpont Morgan.
Với một chút tạp chất Sắt và vàng, beryl không màu sẽ trở nên lộng lẫy hơn với màu vàng – beryl vàng. Đá quý này có những đặc điểm cơ bản giống người anh em aquamarine và ngọc lục bảo. Beryl vàng có màu sắc trải từ màu vàng chanh nhẹ nhàng đến vàng đậm. Không giống ngọc lục bảo, beryl vàng có rất ít tạp chất.
Với những tỉ lệ khác nhau, cùng với sự tham gia của uranium trong thế giới của beryl, chúng ta còn có một loại đá nữa với màu vàng – xanh tươi. Beryl này được gọi là heliodor. Cái tên này bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp Helios (Mặt trời) và doron (món quà). Vì vậy, heliodor là một món quà từ mặt trời
Ban đầu, tên “Beryl” đến từ Ấn Độ. Nó được bắt nguồn từ chữ Phạn ‘veruliyam’, về sau tiếng Hy Lạp theo đó, gọi nó là ‘beryllos’
Beryl thường được tìm thấy ở các mỏ đá quý ở Nam Mỹ và miền Trung và Tây Phi. Một số lượng đáng kể đã được phân bố ở Madagascar, Nga, Ukraina và Mỹ.
Nguồn: Da Quy – Da Phong Thuy
Mã Não – Đá Mã Não
October 11th, 2011 DaQuy.com
Tên gọi: Tên gọi bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp cổ Ahates – có nghĩa là “hạnh phúc”. Công thức : SiO2. Tên gọi khác, biến thể: Mã não, Agat pháo đài (có hoa văn giống như hình vẽ trên bản đồ cổ), đá cành cây (phân nhánh hình cành cây, có hoa văn trông như cây rừng), mắt cú (có hình con mắt)
Những đặc điểm chính: Agat là dạng biến thể của chalcedon thớ mịn mà đặc trưng là có màu phân lớp. Những lớp màu có dạng đồng tâm hoặc dải. Màu của agat dao động từ trắng sữa, phớt vàng và phớt xanh lá cây tới đen. Loại đẹp nhất được gọi là agat “mắt” hoặc agat “mắt kính” với những lớp đồng tâm quanh một điểm ở trung tâm.
Tính chất vật lý:
- Độ cứng : 6,5 – 7,0 – Tinh hệ : Ba phương
- Tỷ trọng : 2,6 g/cm3 – Ánh : Sáp
Tính chất chữa bệnh: Agat làm tăng tiềm năng, giúp điều trị bệnh ho lâu ngày và bệnh ở vùng họng. Người ta tin rằng, agat giúp làm giảm co giật, chống lại sự sợ hãi, bảo vệ cơ thể chống lại bệnh nhiễm khuẩn và bệnh ở dạ dày. Agat có khả năng làm trung hoà độ axit dịch dạ dày, cũng như giải độc cho cơ thể. Có ý kiến cho rằng agat màu xanh da trời có tác dụng tích cực đối với tuyến giáp; mặt – vì vậy có tác dụng trị bệnh ở hệ hô hấp, tiêu hoá và một phần ở gan và đường mật. Agat có tác dụng tích cực đối với hệ tuần hoàn, giúp điều trị rối loạn nội tiết và bệnh nhiễm virut. Loại dạng rêu có tác động chữa bệnh đối với da và và cơ quan hô hấp, loại dạng cành cây có tác dụng tốt đối với bệnh ở dạ dày.
Tính chất khác: Ở châu Âu, agat là biểu tượng của sức khỏe, sự hưng thịnh và trường thọ; Ở Ấn Độ – là biểu tượng của của sự hưng thịnh. Đồ trang sức bằng agat làm cho chủ của nó trở nên dễ mến trong giao tiếp và biết ăn nói, cũng như bảo vệ chủ chống lại kẻ thù thâm độc. Bằng cách hấp thụ năng lượng có hại, agat có thể bảo vệ chủ chống lại những xung năng lượng, là loại đá của nữ thần màu mỡ – bảo trợ cho những chủ trang trại và người làm vườn. Nhẫn gắn mặt đá agat làm cho người đàn ông trở nên quyến rũ hơn trong mắt phụ nữ. Agat là biểu tượng của chòm sao Kim Ngưu và Song Tử trong cung hoàng đạo, năng lượng cảm thụ của âm có tác dụng tới tất cả các luân xa tuỳ thuộc vào màu sắc của đá.
Công dụng khác: Loại có độ cứng cao, chịu acit được dùng để chế tác các trục máy, chốt căn chính xác… Loại đẹp dùng để trang sức và trang trí.
Nguồn gốc sinh thành: Agat gặp chủ yếu trong hốc của đá phun trào và các thành tạo nhiệt dịch nhiệt độ thấp.
Nguồn: Da Quy – Da Phong Thuy
Opal – Đá Opal
September 25th, 2011 DaQuy.com
Do có hiệu ứng lóe màu sặc sỡ (màu cầu vồng) nên viên đá opal có các màu của những loại đá quý khác gộp lại. Hiệu ứng lóe màu sặc sỡ được tạo ra do nhiễu xạ bên trong đá: các cầu thể li ti nằm trong đá làm tách ánh sáng thành các màu phổ tán sắc ngời sáng, giống hệt hiện tượng màu sặc sỡ do các rãnh cực nhỏ trên các đĩa CD gây ra.
Lịch sử và truyền thuyết:
Opal bắt nguồn từ tiếng La Mã opalus, diễn tả một vẻ đẹp đặc biệt của loại đá quý này: có màu sặc sỡ.
Opal là một báu vật trong thời Trung Cổ và người Hy Lạp gọi là ophthalmios, nghĩa là đá mắt, do nhiều người tin rằng đá này giúp tăng thị lực. Một số khác lại nghĩ rằng opal giúp cho người đeo nó có thể trở nên vô hình. Có người còn cho là opal giúp giữ tóc màu vàng không bị bạc.
Opal là những đá chính trên các trang sức của vương triều Pháp. Vua Napoleon đã tặng cho hoàng hậu Josephine một viên opal đẹp sáng màu đỏ tươi, có tên là “Cháy Đỏ Thành Troy”.
Vào thế kỷ 19, opal bị xem là vật xui xuất phát từ một tiểu thuyết nổi tiếng một thời của nhà văn người Scotland là ngài Walter Scott. Trong truyện, nữ nhân vật chính gắn sức sống dựa vào viên đá opal xinh đẹp mà cô ấy cài trên mái tóc và khi viên opal mất đi ánh lửa thì cô gái cũng qua đời.
Opal là một trong các đá mừng sinh nhật trong tháng 10 ở Mỹ.
Chất lượng, Giá trị và Tính phổ biến:
Khi định giá opal, các chuyên gia bắt đầu với màu nền của đá. Được ưa thích nhất là khi màu nền chung của đá thì sẫm và có lóe màu sặc sỡ.
Opal có giá trị nhất khi có màu nền xám sẫm đến đen và được gọi là opal đen. Opal có màu nền là trắng hay màu nhạt thì gọi là opal trắng, loại này có nhiều hơn và giá rẻ. Opal từ trong mờ đến trong suốt được gọi là opal tinh thể, giá trị của nó ở giữa 2 loại trên.
Sau màu nền, giá trị opal dựa vào mức độ và sự phân bố các màu sặc sỡ. Đẹp nhất là khi có tất cả các màu sặc sỡ phủ hết bề mặt viên đá, kể cả màu đỏ. Tuy nhiên opal là một trong các loạiđá quý thể hiện tính riêng tư nhất, phụ thuộc vào sở thích của từng người.
Nguồn gốc:
Nguồn opal quan trọng nhất là Úc vì là nơi sản xuất opal nhiều nhất và đẹp nhất. Địa phương nổi tiếng có opal đen là Lightning Ridge.
Opal lửa là opal gốc núi lửa, trong suốt, có màu vàng sáng đến đỏ, được khai thác ở Mexico, thường được mài giác. Opal lửa hiếm khi thể hiện lóe màu sặc sỡ.
Opal lửa cũng có ở bang Oregon, Mỹ.
Người ta hay mài opal theo dạng ovan cabochon. Opal trắng thường được mài theo kích cỡ quy định, còn opal đen nào có giá trị sẽ được mài theo hình dáng để làm sao cho lóe màu sặc sỡ tối đa mặc dù dạng ovan là được ưa thích hơn cả.
Xử lý tăng vẻ đẹp thường gặp:
Các phương pháp xử lý opal được dùng nhiều nhất là làm tối đá màu nhạt để cho giống opal đen. Phương pháp nhuộm là làm cho màu nhuộm thấm vào trong cấu trúc rỗng để đá có được màu mong muốn. Phương thức xử lý “Khói” là tạo màu nền từ nâu sẫm đến đen. Phương pháp xử lý “Đường cát” tạo màu nền đen, chắn sáng.
Các viên opal nào quá mỏng, muốn dùng làm đá quý thì phải được dán thành hai hay ba lớp giống như bánh sandwich. Đá 2 lớp gồm đáy là vật liệu màu đen, phía trên là opal mỏng. Đá 3 lớp gồm 2 lớp kể trên, phần trên cùng là lớp thạch anh hay plastic không màu, dạng vòm. Dĩ nhiên là đá ghép này rẻ hơn đá opal nguyên. Chúng được bán theo từng viên và giá có thể lên đến hàng trăm lần nếu viên đá quá đặc biệt.
Bảo quản và làm sạch:
Opal có độ cứng 6 trên thang Mohs, mềm hơn nhiều loại đá quý khác, do đó nên giữ gìn cẩn thận để tránh bị làm trầy xước bởi những nữ trang khác. Nếu để đá rơi, phần nào lộ ra sẽ dễ bị bể. Không được để opal tiếp xúc với nhiệt hay axit. Rửa opal với xà phòng: dùng bàn chải chà phía sau viên đá nơi có thể dính nhiều chất dơ.
Nguồn: Da Quy – Da Phong Thuy
Abalone – Bào Ngư
September 24th, 2011 DaQuy.com
Mặc dù không có cấu trúc tinh thể như các loại đá khác, bào ngư đã được sử dụng trong đồ trang sức và điêu khắc qua nhiều thế kỷ. Với hình dáng phẳng và bầu dục, Bào ngư còn có tên gọi khá trìu mến là cái tai của biển cả. Bào ngư chứa các màu sắc của biển, ngoài vỏ óng ánh trong xanh, xanh, tím và vàng. Bào ngư thúc đẩy sự hợp tác, làm dịu đi các căng thẳng. Nhìn vào lớp vỏ đầy màu sắc của bào ngư, người khó tính nhất cũng phải khâm phục trầm trồ về khả năng kỳ diệu của tạo hóa
Theo như thông tin từ một anh chuyên về trang sức bào ngư ở Bình Chánh, bào ngư sau khi khai thác sẽ được làm sạch phần vỏ rêu bên ngoài, khi đó lớp vỏ đầy màu sắc bên trong sẽ hiện ra. Vỏ ngoài của bào ngư rất xấu xí.
Bào ngư có liên quan với tất cả các nguồn năng lượng Chakra. Đặc biệt, có vẻ như nó phù hợp nhất về năng lượng mặt trời Plexus Chakra, kích thích cảm giác ruột. Bào ngư là đặc biệt tốt cho các Chakra tim, vì nó nhẹ nhàng xóa các trung tâm của sợ hãi, nỗi buồn và những cảm xúc tiêu cực. Bào ngư cho phép các nguồn tài nguyên trực quan của bạn để kích thích sự phát triển tâm linh và trực giác thông qua Chakra mắt thứ ba.
Dân gian dùng bào ngư để trị viêm khớp và các rối loạn liên kết khác, các vấn đề về cơ, tim, và tiêu hóa.
Bào ngư có thể được làm sạch và rửa năng lượng tiêu cực mỗi tháng bằng cách đặt nó trong một bát nước ấm, thêm một muỗng cà phê muối biển. Rồi đặt dưới ánh sáng của mặt trời và / hoặc mặt trăng trong từ 24-48 giờ.
Vỏ của con bào ngư có hình bầu dục. Vỏ vừa đóng vai trò bảo vệ thân bên trong, vừa là tai có lỗ chân lông hô hấp ở một hàng gần rìa. Thổ dân châu Mỹ thu hoạch bào ngư từ vùng bãi triều. Người châu Á thu hoạch bào ngư tại California trong những năm 1800 và đầu những năm 1900. Vỏ là một phần của một hệ sinh thái sống, được tạo thành từ canxi cacbonat và phát triển trong đại dương. Vỏ bào ngư đã được sử dụng trong nhiều thế kỷ trong đồ trang sức và điêu khắc. Trong truyền thống Ấn Độ, các cô gái Apache thường đeo một vỏ bào ngư lên trán vào bình minh.
Nguồn: Da Quy – Da Phong Thuy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét